Hầu hết chúng ta khi tập tễnh bước vào tìm hiểu lẫn nhau để tiến tới một đám cưới, ít nhất kể từ lúc đó chúng ta đã manh nha mong muốn có được một đời sống hôn nhân hạnh phúc. Trong bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu tới các bạn tập tài liệu Bí quyết của một hôn nhân hạnh phúc của Tác giả: Dr. Allen Hunt và được được dịch bởi Louis Tuấn.

  1. Bí quyết sống có mục đích

Nếu bạn sắp kết hôn, / bạn phải biết bạn đi về đâu. Phúc thay đôi bạn nào hiểu được cuộc hôn nhân của họ là nẻo đường đi về Quê hương Nước Trời.

C. và M. gặp nhau cách đây gần một thế kỉ ở dải đồi miền nam Ohio, một làng quê cạnh dòng sông Ohio. C. bấy giờ 9 tuổi khi bố em gom bọn trẻ trên chiếc xe bò đi đám tang. Một người hàng xóm mới qua đời, để lại người vợ góa với bốn đứa con thơ.

Sau lễ tang, bọn trẻ chơi đùa quanh khu nghĩa trang, C. để ý cô bé M. 7 tuổi đứng bên gia đình đang đau buồn. Cậu nghĩ “thật buồn, tội nghiệp cô bé giờ không còn bố”. C. khi ấy chợt nghĩ và thề nguyện với mình trong lòng sẽ quan tâm đến cô bé những tháng năm sắp tới.

C. và M. chẳng bao lâu sau đó gặp nhau mỗi ngày. Cả hai đứa đều ở trong đám trẻ cùng đi đến trường hằng ngày, tung tăng trên con đường hơn một dặm dẫn xuống ngôi trường một phòng học duy nhất.

Thời gian trôi qua tình bạn càng khắng khít. C. học xong lớp tám và phải rời trường để phụ gia đình chăm nom việc đồng áng. M. rồi cũng trở thành cô giáo dạy các trường làng quê ở Ohio. Hai đứa thích nhau và bắt đầu hẹn hò. Hai người cũng cùng đi nhà thờ.

Khi C. đến hai mươi tư tuổi, anh rời nông trại và đến Pittsburg làm việc tại nhà máy. Anh cần có nhiều thu nhập hơn những hoa lợi từ nông trại nhỏ bé của gia đình anh. Thế là anh khởi sự làm việc như một nhân viên chăm gia cầm. Anh làm việc tốt và chăm chỉ để rồi bốn năm sau anh và M. cưới nhau.

Ngày cưới, đôi bạn và gia đình họ cùng bạn bè đến nhà thờ quê hương sở tại mình. Cha xứ già đã nghỉ hưu Newman làm lễ cưới cho họ. Ngài phải ngồi hầu như suốt buổi lễ vì sức khỏe đã yếu do đã quá tám mươi.

Nhưng cha Newman đã làm một nghi thức đặc biệt. Trước Thánh lễ, ngài hướng về C. và nói “Khi cha tuyên bố anh chị thành vợ thành chồng, con hãy nắm lấy tay M. và không bao giờ buông ra nữa”. C. đã làm đúng như cha dặn. Để có nhau và giữ nhau, từ nay và mãi về sau.

Sau đó, mọi người vui mừng chia sẻ với nhau chiếc bánh kem và ly rượu sâm banh ngọt ngào. Và đôi tân hôn qua đêm ở nhà mẹ cô dâu. Ngày hôm sau, hai vợ chồng thăm gia đình họ hàng C., thưởng thức món gà rán và tiếp tục ăn bánh ngọt. Ngày hôm sau nữa, đôi bạn đến Pittsburgh, để C. tiếp tục làm việc và M. bắt đầu làm quen và ổn định cuộc sống ở căn nhà mới.

C. trở lại làm việc ở nhà máy, trong thành phố đầy khói bụi của các nhà xưởng sản xuất. M. cảm thấy đơn độc trong môi trường mới này, cô thường hay nhớ tưởng những người dân ở quê nhà.Khi vui cũng như khi buồn.

Nhưng rồi tình hình trở nên tốt đẹp hơn. Cô và C. gặp được một giáo xứ mới, có các cặp vợ chồng trẻ đồng trang lứa và những người bạn tốt thân thiện, một vài người trong số đó sau này đã trở thành bạn thâm niên với họ đến cuối đời.

Rồi cũng đến lúc có khủng hoảng. Nhà máy của C. vẫn hoạt động nhưng bây giờ thời gian lao động trở nên sít sao, căng thẳng hơn. Anh phải làm cật lực. M. nắm tài chính gia đình và vật vã để tiết kiệm từng đồng bạc. Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan.

Đó là thời gian không lâu trước khi chào đón đứa con đầu lòng chào đời. M. vẫn ổn cho tới một ngày giữa tháng Năm lúc cô mang thai khoảng tám tháng.

Hôm đó sau khi ăn sáng xong, cô đau bụng dữ dội. C. vội vã đem cô đến bệnh viện. Một giờ trôi qua, rồi một giờ nữa. Anh cứ lo lắng canh chừng tại phòng đợi, trong khi bác sĩ cố hết sức và cuối cùng thành công cứu cả mẹ M. và con trong bụng.

Đứa bé sinh ngược và phải mổ, cơ thể bé nhỏ của M. toang hoác rã rượi, nhưng sau cùng cô điều dưỡng mang một bé trai bé bỏng đến trao cho C. đang nóng ruột trong phòng đợi. Hai anh chị đặt tên con là To., ở nhà gọi là cu Min.

M. và bé Min ở bệnh viện thêm một tuần lễ nữa. Khi về nhà, em bé ăn uống rất khó khăn. Hai vợ chồng thử mọi cách để thúc con ăn.

Họ mang con đến bác sĩ khám, ông bảo “Em bé phải bú sữa mẹ thôi, nếu không em sẽ không bao giờ nuôi lớn lên bình thường được”. Bác sĩ gợi ý M. uống chất dinh dưỡng Malt-Nutrine. Thế nhưng, C. và M. không thể mua nổi với giá cả quá đắt như vậy. Bởi thế bác sĩ hỏi liệu anh chị có thể tự pha chế được thứ thức dinh dưỡng này không.

C. trả lời “tôi không biết, nhưng có thể sẽ học làm được mau thôi”.

Và anh đã học được cách pha chế. Chẳng bao lâu C. thấy anh có thể sản xuất được tám mươi chai chỉ với một đô-la, và M. uống mỗi ngày ba chai. Cuối cùng thì M. cũng có sữa căng đầy cho con bú. Bé Min bắt đầu lớn như thổi. Khủng hoảng sinh đẻ và thách thức sự sống còn của bé Min chỉ làm cho tình yêu của C. và M. sâu đậm thêm.

Năm tháng trôi qua mau, C. làm việc đằng đẵn chăm chỉ tại nhà máy cán thép và dần vươn lên từ một công nhân bình thường thành quản đốc. Bé Min đã lớn thành cậu sinh viên To., rồi gia nhập quân ngũ, đóng quân tại California, và lập gia đình.

Cuối cùng, C. cũng nghỉ hưu, ông và M. mau chóng dời đến Fresno, California để sống gần To. và gia đình nhỏ của cậu. Cuộc sống của C. và M. thư thả. Hai người ghi danh vào sinh hoạt giáo xứ ở đó và trông nom hai cháu gái bé bỏng rất dễ thương đang lớn từng ngày.

Dòng đời trôi. C. chăm sóc M. mắc bệnh ung thư ngực, giải phẫu mắt, và gãy hai xương chậu. Ông rốt cuộc phải tự lo mọi chuyện bếp núc, giặt giũ, phơi đồ, xếp quần áo. Ông tắm rửa cho vợ, bà bị sụp cột sống do bệnh loãng xương. Khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe.

Một buổi tối tháng Tám, lúc C. tắt truyền hình và hai vợ chồng sắp đi ngủ thì M. ngã quị kêu thét đau đớn. Ông hoảng loạn gọi 911 và chờ đợi. Tại bệnh viện, M. được cấp cứu mổ khối u loét bị vỡ.

Từ đó, ông không thể trực tiếp chăm sóc vợ như trước được nữa. Cả nhà quyết định đưa bà đến Nhà Hi Vọng (Hope Community Home), một viện điều dưỡng không xa nhà họ mấy. M. dần làm quen với các nhân viên điều dưỡng và những cư dân ở đó. Bà là một bệnh nhân dễ chịu, dịu dàng, vui vẻ hay cười, không bao giờ phàn nàn.

Căn phòng bà ở khá rộng, ông có thể đem cái ghế gỗ đung đưa từ nhà đến, đặt cạnh giường bà nằm. Đó chính là cái ghế hai người đã mang đi từ Pittsburgh. Chiếc ghế cọt kẹt êm ả đung đưa có C. ngồi bên cạnh cho bà bình yên thư thái.

M. mỗi ngày một yếu nhợt đi. C. tiếp tục giúp bà ăn ba lần mỗi ngày. Ông cứ nghĩ ngợi băn khoăn có nên dọn vào ở đây với bà không thay vì đến ở với To. và gia đình nó. Ba lần mỗi ngày C. lái xe đến ở với M. tại ngôi Nhà Hi Vọng này. Ông vẫn giúp bà mỗi bữa ăn. Khi ông phải nạp trả lại bằng lái xe vì đã quá già, vào ngày sinh nhật thứ chín mươi hai, C. phải đi về bằng xe bus công cộng để ở đó giúp M. mỗi bữa ăn và ngồi trên chiếc ghế gỗ đu đưa bên M.

C. giúp M. súc miệng rửa hàm răng giả, chêm gối chăn quanh người bà khi ngồi xe lăn, dịu dàng sấy tóc cho bà. Mỗi dịp lễ Giáng sinh, ông mua cho bà hai bộ đồ mới toanh mặc ở nhà. Ông dâng hoa nhà thờ họ mừng kính Chúa Mẹ cầu nguyện cho bà.

M. bắt đầu có những dấu hiệu bị lẫn. Bà không biết chắc chắn bản thân mình là ai, mình đang ở đâu. M. càng lẫn nhiều ông càng hoảng. Sau cùng, sau năm năm C. đến hằng ngày giúp bà mỗi bữa ăn, bác sĩ của ông khuyên ông phải bớt lại. Vì thế ông chỉ còn đến thăm bà hai lần mỗi ngày thôi.

Ngày 23 tháng Giêng dương lịch, gia đình gặp bác sĩ. Có tin không lành. M. bị viêm phổi, không ăn được nữa. Cơ thể bà bắt đầu teo tóp dần. Thần Chết đến gần.

Từ đó, C. luôn ở bên cạnh M. nói luôn miệng “M. ơi đừng chết nhé. Anh van em đừng bỏ anh”.

Rồi biết rằng cái M. cần nhất lúc này là lời đoan hứa của ông, C. rốt cuộc thốt lên “Được rồi, em yêu. C. đây. Anh yêu em”.

Ngày 27 tháng Giêng, Chúa nhật. To. đi nhà thờ và nhận Mình Thánh Chúa. Mọi người giáo dân trong nhà thờ đều biết tại sao ông C. vắng mặt. Sau Thánh lễ, To. và cha xứ đến thăm C. mang Mình Thánh Chúa cho ông. Họ cùng đọc Thánh Vịnh 23.

Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, / tôi chẳng thiếu thốn chi. / Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. / Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. / Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.

Mọi người chìm lắng trong Bình an phó thác.

Họ rời đi. Một mình C. ở lại. Nghiêng mình trên giường ông dịu dàng khẽ nói “Chào M.”.

Bàn tay nhỏ nhắn của nàng trong lòng bàn tay ông như ngày tân hôn, M. trút hơi thở cuối cùng. Để yêu thương tôn trọng nhau mọi ngày đến cuối cuộc đời.

Vài ngày sau bà nằm yên nghỉ mãi mãi với chiếc hộp nhỏ đặt bên cạnh. Trong đó là chiếc áo cưới hồng nhạt ghi dấu thời gian sáu mươi năm trước M. mặc trong ngày cưới, khi nàng nói lời hứa yêu thương tôn trọng C. cùng sẻ chia cuộc đời này với ông.

Tôi không có đặc ân được gặp gỡ C. và M.. Khi được nghe câu chuyện thật đẹp này tôi buộc thốt lên lời ngợi khen chúc tụng. Họ rõ ràng mong muốn cùng giúp nhau lên trời. Họ khao khát muốn người bạn đời của mình được nên tốt đẹp hơn. Họ nhằm chờ nhau ở bến bờ vĩnh hằng kia.

Họ có một mục đích bí nhiệm. Họ biết mục tiêu của mình hướng đến trong cuộc đời. Châm ngôn dạy rằng “Bạn hãy khởi đầu bằng cách nghĩ đến đích điểm cuối cùng”. Nói cách khác, hãy biết bạn đang đi về đâu. C. và M. đã sống đúng như vậy. Đôi bạn ấy biết mục đích của họ (là lên trời), và đã cùng nhau đeo đuổi nó trong cuộc hôn nhân trong hơn sáu mươi năm ròng.

Thánh Gioan Thánh Giá chia sẻ lời khôn ngoan này: Mục đích của Thiên Chúa là biến đổi linh hồn bạn nên vĩ đại. Đó là mục đích.

Hầu hết chúng ta đều sống, đúng hoặc không đúng, với những gì ta mong đợi. Khi hai người kết hôn, nếu như họ ôm ấp thiết tha cái hoài bão làm cho bạn đời của mình luôn tốt đẹp hơn, giúp anh ấy cô ấy vươn lên trời, cuộc hôn nhân ấy sẽ đơm hoa kết trái, triển nở. Tốt hơn nữa, nếu như họ hiểu rằng Thiên Chúa đang hành động biến linh hồn họ nên vĩ đại, họ có một mục đích chung, có một đích đến cùng nhắm tới. Họ biết họ đi về đâu: lên trời, về với Chúa. Đó là hoài bão cao nhất của mọi người.

Hãy biết bạn đang đi về đâu. Đó là bí quyết sống có mục đích.

  1. Bí quyết nhiệm tích

Hôn nhân là một huyền nhiệm. Có điều gì đó tồn hữu trong hôn nhân sâu xa hơn nữa chứ không chỉ là bốn mắt nhìn nhau.

Chỉ một từ mô tả được điều ấy, là huyền nhiệm (mystery). Có từ ngữ nào mô tả được thực tại hai con người hòa nhập thành một, hai cuộc đời kết nối với nhau thành một không? Mỗi cuộc hôn nhân mang lấy một cuộc sống duy nhất và mọi sự trong cuộc sống của hai người phối ngẫu hoàn toàn chỉ cho mối quan hệ đó. Đó là một huyền nhiệm. Và đó là huyền nhiệm của bí tích.

Một “sự kết hợp huyền nghiệm” (“mystical union”) có lẽ là cách nói tốt nhất mô tả một cuộc hôn nhân lành mạnh. Nhưng “kết hợp huyền nghiệm” không phải là từ ngữ thông dụng chúng ta dùng hằng ngày.

Tuy nhiên, Thiên Chúa muốn kết hợp trong huyền nhiệm với bạn, kết hiệp giữa các ngôi vị trong tinh thần. Bạn hãy cố nghĩ đến chuyện ấy. Thánh Kinh là một câu chuyện tình yêu. Thật vậy, từ đầu đến cuối Thánh Kinh là một chuyện hôn phối. Khởi đầu với câu chuyện tạo dựng Ađam và Evà, hôn phu và hôn thê đầu tiên, trong Sáng thế. Thánh Kinh đạt đến đỉnh cao và kết thúc ở Khải huyền, với thị kiến về lễ cưới vinh hiển của Con Chiên. Ở lễ cưới thiên quốc ấy, mọi người dân trung tín của Thiên Chúa sẽ được kết hiệp với Ngài một lần dứt khoát, và mãi mãi. Sách Thánh cho chúng ta thấy ước muốn sau cùng của Thiên Chúa là kết hôn với chúng ta. Chúng ta là dân yêu quí của Ngài. Chúng ta sẽ là Hiền thê của Ngài. Đó là một sự kết hợp huyền nghiệm.

Thiên Chúa kết hợp một đôi bạn trong hôn nhân giống như Ngài kết hợp bạn và tôi trong chính Ngài vào ngày cánh chung đó. Cuộc hôn nhân thế gian này của bạn bây giờ là một nhiệm tích vì nó chỉ đến cái viễn tượng cánh chung đó của Khải huyền, khi chúng ta sẽ được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa. Các bí tích, như Rửa tội, Thánh Thể, Thêm sức, và Hôn phối, tất cả là dấu chỉ bề ngoài của thực tại Thiên Chúa đang làm bên trong chúng ta. Trong hôn nhân, Ngài kết hợp hai con người lại với nhau một cách thiêng liêng, giống như Ngài sẽ đích thân làm với mỗi người chúng ta tại lễ cưới cánh chung.

“Và tôi thấy Thành thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang.” (Kh 21,2).

Hôn phu và hôn thê bây giờ giống như khi ấy sẽ là Thiên Chúa và Hội Thánh Người. Một huyền nhiệm.

Huyền nhiệm ấy là huyền nhiệm của bí tích. Hai cuộc đời thực sự trở thành một. Người chồng và người vợ kết hợp với nhau, cả trong thể xác, tình cảm và linh hồn, trong mọi thể thức. Chồng và vợ cùng chung sống, cùng nhau tạo lập một cuộc sống trong tư cách một đôi, và họ có tiềm tàng khả năng là đối tác giao ước với Thiên Chúa để tạo dựng sự sống mới qua con cái. Vợ chồng sẽ vui hưởng hạnh phúc cùng nhau, chịu khổ chịu cực cùng nhau, và luôn giúp nhau cho đến khi răng long tóc bạc. Đời sống và kinh nghiệm của họ sẽ trở thành một kết hợp huyền nghiệm, một bí tích. Hãy nhớ lời của thánh Gioan Thánh Giá: Mục đích của Thiên Chúa là muốn làm cho linh hồn bạn nên vĩ đại. Các bí tích đều có ý hướng như thế. Nói cách khác, Chúa Thánh Thần ước muốn dùng cuộc hôn nhân của bạn để chia sẻ ân sủng vô hình và sự thánh thiện bên trong cho linh hồn bạn. Đó là sự hoạt động của một bí tích.

Bạn nghĩ xem bạn đã thường nghe như thế nào, người ta nói li dị như là một cái chết. Bởi hôn nhân không giống như mọi mối quan hệ khác. Nó không chỉ là một cuộc sống chung; cũng không phải là một hợp đồng, một thỏa ước. Hôn nhân cung cấp cho ta một cái gì sâu xa hơn và mầu nhiệm hơn nhiều: đó là vì nó là huyền nhiệm bí tích.

R và M. lấy nhau và cùng phục vụ trong môi trường giáo dục được vài mươi năm. Hai vợ chồng được mọi người quí mến bởi khả năng giảng dạy và lãnh đạo tuyệt vời của họ. R. trở thành chủ tịch của một trường cao đẳng và phục vụ trong nhiệm vụ ấy hơn hai mươi năm. Anh và M. có nhiều bạn hữu khắp nơi trên thế giới và nhiều người phải ganh tị khi thấy đôi bạn này sống say mê và có lí tưởng cuộc đời và niềm tin của họ.

Khi hai người đến độ tuổi ngũ tuần, một ngày nọ, trong khi kể chuyện về một sự kiện ở Florida, M. kể lặp lại lần nữa cùng một câu chuyện chỉ trong vòng sau đó có 5 phút. R. nhận thấy hơi kì lạ. Xưa nay chưa hề có chuyện ấy. M. chỉ mới có 55 tuổi thôi.

Việc lặp đi lặp lại trong khi M. phát biểu giữa công chúng bắt đầu thấy xảy ra thường xuyên hơn, nhưng chưa đến mức làm R. quá lo lắng. Mãi đến ba năm sau, khi M. bị đau và đi khám tim ở bệnh viện, bác sĩ mới báo tin chấn động: cô ta mắc bệnh Alzheimer. Và như thế có nghĩa là sẽ bắt đầu một quá trình M. từ từ bị tổn thất và hao mòn dần sự tinh anh sắc sảo cùng những tài năng đặc biệt của cô.

Tuy nhiên, cô vẫn còn nhận việc nói chuyện với công chúng và tham gia giảng dạy. Cô vẫn có những lúc, trong một vài khung cảnh nào đó, nói lặp sự kiện, rồi quên (không biết) mình đang ở đâu trong những lúc khác, và nói không mạch lạc trước mặt mọi người, về nhà cô cảm thấy kiệt quệ, buồn tủi vì đã không còn làm tốt được như xưa nữa. Bệnh Alzheimer ngày càng phát trầm trọng hơn, từ từ như dòng băng giá tan chảy lẻn dần vào trí óc và linh hồn cô.

Chẳng bao lâu R. cảm thấy sợ để mặc M. ở một mình, nên từ đó họ đi đâu cũng có nhau. Bất cứ ở đâu họ đến, nếu anh chỉ rời mắt khỏi nàng chỉ một chốc lát cô liền đi lạc. M. đang vuột khỏi tay anh, cả theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Người làm giúp việc nhà cũng rời bỏ càng khiến nhiệm vụ chăm sóc M. thêm nặng nề.

R. lúc nào cũng phải đi bên cạnh nàng, chẳng bao lâu làm anh quá tải. Một lần hai người đi Atlanta, chuyến bay bị hoãn lại hai tiếng đồng hồ. Trong khi đợi ở phi trường, M. cứ hỏi đi hỏi lại một chuyện gì đó. Cứ khoảng mỗi 5 phút M. lại rảo bước đi loanh quanh không mục đích dọc ngang sân ga phi trường mênh mông. R. phải hối hả đi theo mới bắt kịp nàng. Một lần sau vô số những cuộc đi bộ rượt đuổi bở hơi tai như thế, một chị nhân viên ngồi ở băng ghế đối diện mới thốt lên với một người bạn, “giá mà tôi cũng sẽ gặp được một người đàn ông yêu thương tôi như thế!”.

Rốt cuộc sự căng thẳng đến mức giới hạn của nó. R. phải xin từ nhiệm chức chủ tịch hội đồng trường cao đẳng đang lúc rất thịnh phát. Ban quản trị trường rất ngạc nhiên trước quyết định từ bỏ vị trí lãnh đạo ấy của anh. Họ sẵn sàng trả chi phí chăm sóc M. toàn thời gian để cho R. có thể tiếp tục công việc của anh. Bạn bè khuyên R. chỉ cần đưa vợ vào nhà an dưỡng để anh có thể “rảnh tay tiếp tục” nhiệm vụ.

R. bình thản nhưng kiên quyết từ chối ý kiến đề nghị của ban quản trị. Anh nhẹ nhàng nhắc lại lời thề hứa của anh trước mặt Chúa bốn mươi hai năm trước:Khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe để yêu thương và tôn trọng M. mọi ngày suốt đời anh.

Thế là anh từ nhiệm và chăm sóc M., người bạn đời thiêng liêng của anh, toàn thời gian. Trong bức thư xin từ nhiệm anh viết: “Có nghĩa vụ, có công bằng, chính trực, nhưng ở đây còn có điều gì lớn lao hơn nữa, đó là tôi yêu M. Cô ấy là niềm vui của tôi… Tôi không buộc phải, nhưng tôi được cơ hội chăm sóc cô ấy! Một vinh dự lớn để được chăm sóc một con người tuyệt vời như thế”.

Năm tháng trôi qua, bệnh Alzheimer lần hồi khóa chặt dần con người của M., thì cũng đồng thời khép từng phần con người của R. lại. Sau cùng, M. không còn nhận biết được R. là ai nữa. Nhưng thật trớ trêu, bệnh tình M. càng xấu đi, R. càng yêu thương nàng sâu sắc hơn, dòng yêu thương thấm rỉ ra từ mọi ngóc ngách linh hồn anh.

Vâng, quả thật anh có mất kiên nhẫn. Vâng, quả là anh thấy cô đơn. Vâng, quả là anh có cảm thấy thất vọng. Thế nhưng, còn có cái gì đó mạnh mẽ hơn, sâu thẳm, lớn lao hơn chống đỡ anh.

Anh tựa nương vào gia đình và bạn bè. Anh cậy dựa vào những kỉ niệm đẹp, bình yên mà anh và M. đã xây dựng bao năm qua. Nhất là anh kín múc giải khát được từ nguồn tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa.

Sau một đời yêu mến và phụng sự Chúa, R. học biết ca tụng Ngài trong cả những ngày đen tối nhất và không còn hi vọng gì. Lời ca tụng đã đem lại bình an khuây khỏa cho linh hồn mệt mỏi nặng nề của anh.

Như thế đó, dẫu không còn giao tiếp bình thường được nữa, sau hai mươi lăm năm M. trôi tuột dần cho đến ngày qua đời ở tuổi tám mươi mốt, R. vẫn ở đó bên cạnh vợ. Lòng thương yêu vợ của anh được tình yêu Chúa ấp ủ hai người, nuôi dưỡng.

Dĩ nhiên, rất nhiều người không hiểu được ý nghĩa của bí quyết của nhiệm tích này. Một nghiên cứu thực tế đã cho ta thấy rằng khi rơi vào tình cảnh bệnh nan y, bảy trên mười cặp tan vỡ. Căng thẳng làm người ta quá sức chịu đựng. Đáng tiếc thay, thường là người chồng lìa bỏ chính vào cái lúc người bạn đời cần ông nhất. Trong phần nhiều hoàn cảnh đó, người chồng bỏ rơi vợ vì ông nhận hiểu hôn nhân một cách sai lầm ích kỉ. Hôn nhân, theo ông, là cái gì đó chỉ liên hệ đến ông và như ông mong muốn, hơn là một huyền nhiệm của bí tích.

Các bạn tránh bi kịch ấy như thế nào? Bằng cách hãy ôm lấy huyền nhiệm bí tích hơn là chùn bước trước gian nan. R. hiểu rằng anh giúp M. lên trời bằng việc yêu thương nàng và giúp nàng hoàn tất cuộc hành trình trần gian tốt nhất. Anh cũng khám phá ra rằng phục vụ M. đau bệnh như thế là làm cho anh thành con người tốt hơn. Linh hồn anh dần lớn lao lên khi mỗi ngày qua đi. Khi phục vụ nàng, R. tìm thấy được cơ hội để triển nở nên dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, và quảng đại hơn. Phát triển như thế cho anh kinh nghiệm yêu mến trong cuộc đời này và tình yêu Thiên Chúa ở một mức độ anh chưa bao giờ khám phá được bằng cách nào khác.

Có dễ làm như thế không? Hẳn là không. Điều đó có đáng cho ta tìm kiếm không? Chắc chắn như thế rồi. Khi tình yêu trở nên sâu sắc và nở hoa tươi thắm, nó tuyệt đẹp để cho người ta ngắm nhìn tán thưởng.

Khi một cặp vợ chồng thực sự khám phá rằng họ đang sống một huyền nhiệm bí tích, thì sự khám phá đó sẽ biến đổi mối quan hệ của họ. Họ bước ngay vào một mức độ mới mẻ, sâu xa hơn, phong phú hơn. Thiên Chúa đang hoạt động trong họ và qua họ. Họ không chỉ là đối tác phối ngẫu của nhau; họ còn là đối tác của Thiên Chúa nữa.

R. và M. đã ôm lấy huyền nhiệm bí tích không chỉ vào ngày cưới, nhưng mỗi ngày trong cuộc hôn nhân của họ như Thiên Chúa đã tỏ hiện nơi lời thề hứa của họ.

Khi tôi nghe câu chuyện thật ý nghĩa này, tôi nhận ra rằng không phải ai cũng sống câu ngạn ngữ “Nếu bạn cảm thấy điều ấy tốt đẹp, hãy làm đi”. Đơn giản là có cái gì đó còn đẹp hơn là việc bạn có cả khối tri thức phức tạp. Trong cuộc sống có một số việc gì đó còn quan trọng hơn làm được những gì bạn muốn và chỉ biết tìm vui thú.

Trong tất cả, yêu thương là từ ngữ đẹp nhất. Không phải bất cứ loại tình yêu nào, nhưng là tình yêu nhân hậu, tình yêu biết hi sinh, cho đi, xem người bạn trọng hơn mình, như Chúa Giêsu đã yêu và vẫn còn yêu thương chúng ta. Tình yêu hóa thân trên thập giá, tình yêu tự hiến.

Trong một thế giới điên cuồng đi tìm thực hiện chính bản thân, Thiên Chúa cho ta thấy còn có cái gì hơn nữa.

Nhưng tôi sẽ cho bạn thấy một cách thức tuyệt diệu hơn.

“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.

Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều khiếm nhã, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến dung thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả.

Đức mến không bao giờ mất được….

Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” (1Cr 12,31tt).

Đức mến chính là tình yêu thương quảng đại biết hi sinh. Tình yêu triển nở, chín muồi theo thời gian. Tình yêu của con người phản ánh tình yêu sống động của Thiên Chúa trong các mối quan hệ. Đó là huyền nhiệm bí tích, hay bí quyết của nhiệm tích.

  1. Bí quyết đồng lao cộng tác

Một làm sao lại lớn hơn Hai được? Ai cũng biết Một cộng Một là Hai. Và dĩ nhiên, ai cũng biết Hai thì lớn hơn Một.

Nhưng trong thực tế Một thực sự có thể lớn hơn Hai. Đó là bí quyết của sự đồng lao cộng tác.

P. và H. đã dạy tôi “bài toán học” này. Khi đã kết hôn được hơn năm mươi năm tôi gặp họ lần đầu tiên, họ sống rất giản dị. Ông P. đã từng là công nhân xây dựng và làm quản đốc. Bà H. làm nhân viên thủ thư một thư viện lâu năm trước khi nghỉ hưu. Họ có ba người con trai đã lớn và đã có gia đình.

Trong cuộc sống hưu trí lặng lẽ ấy hai người làm gì cũng có nhau. Họ đi dạo với nhau. Họ đọc sách với nhau. Họ cùng nhau làm việc thiện nguyện ở giáo xứ. Họ hầu như lúc nào cũng ăn với nhau. Nhất là họ cùng làm đất làm vườn với nhau.

Khó mà nói ai, ông hay bà, vui thú việc điền viên này hơn. Dù thế nào, mảnh vườn của họ cũng “ngon” nhất, cả cộng đồng xóm giềng phải ganh tị. Khu vườn của họ không quá to tát cũng không quá nhỏ, nhờ bàn tay của hai người nó sinh hoa kết trái xum xuê hàng năm. Họ trồng cà chua và bí, một ít bắp và đậu, và một loạt các loại rau khác đôi bạn dùng trong các bữa ăn đãi khách hay cho chính họ.

Nhưng trên hết, ông bà trồng hoa hồng. Thật ra, trồng hoa hồng là niềm đam mê của họ. Họ đã thử nghiệm nhiều giống hoa hồng khác nhau, và hàng năm sản sinh ra một loài với một màu một vẻ duy nhất từ mảnh đất vườn dành riêng đó. Dĩ nhiên, hai người rất hào phóng sẵn sàng chia sẻ các bông hoa của họ cho mọi người. Những bông hoa tươi đẹp đó xuất hiện trên các cổng chào các ngôi nhà trong xóm làng, tại nhà thờ, và trong các giỏ hoa ông P. hay bà H. đem tặng khi đi thăm bạn bè, người thân của họ.

Khi các con gái nhà tôi chào đời, ông bà đến thật sớm ngay sau đó cùng với chiếc bình đầy hoa hồng tươi thắm chúc mừng. Hoa hồng là biểu trưng cho sức sống, vẻ đẹp, và lòng nhân hậu của cặp vợ chồng này. Họ cùng nhau chăm chút và trồng tỉa cẩn thận vườn hoa hồng của họ. Họ cùng nhau cười vui chia sẻ thành quả lao động của họ cho người khác.

Nhiều năm sau khi chúng tôi dọn đi nơi khác, vợ tôi và tôi được mời về thăm. Ông P. mới qua đời cách đó không lâu, chúng tôi chưa gặp lại bà H. kể từ khi chồng bà ra đi. Chúng tôi định đến chào và thăm hỏi sức khỏe và cuộc sống của bà H. thế nào, bà sống một thân một mình từ nay.

Buổi chiều chạng vạng, A. và tôi dừng xe ở nhà thờ để ngắm nhìn lại khung cảnh êm đềm vùng quê một lúc. Thật ngạc nhiên, chúng tôi nhận ra bà H. đã ở đấy, đang cắm hoa cho nhà thờ những bông hoa đẹp nhất của bà – hoa hồng, đỏ, trắng, những bông hoa hồng Double Delight cực xinh tươi, đơn sơ mà lộng lẫy.

Không cần phải nói, chúng tôi rưng rưng cảm động được gặp lại bà H. và vui sướng lại thấy những hoa quả của bàn tay khéo léo tỉa tót của bà. Tôi ôm bà và nói: “Hoa hồng của bác rất đẹp. Thật là tuyệt vời được gặp lại bác và những bông hoa tươi thắm của bác”.

Bà H. phấn khích tươi cười, mãn nguyện về những cánh hoa khoe sắc, ngưng giây lát rồi cất tiếng nói “Anh chị nghĩ thế hả? Tôi những tưởng liệu những bông hoa này có khoe nở được không nếu không có ông ấy”.

Bà đã thấy khó hình dung được mình sẽ làm vườn thế nào đây mà không có P. bên cạnh. Ông là một phần của bà, và bà là một phần đời ông. Bà thật sự không thể thấy được mình kết thúc công việc ở đâu và ở đâu ông việc ông P. bắt đầu, cũng như ngược lại. Hai cuộc sống quấn chặt vào nhau đến nỗi không thể nghĩ đến cuộc sống của người này mà không có người kia. Quả thật, Một thì lớn hơn Hai. Những bông hoa hồng ấy là hiện thân của một cuộc sống duy nhất như thế đó. Hai người đã cùng nhau vun trồng những bông hoa hồng trong bao nhiêu năm, và họ đã đồng lao cộng tác như thế thật là đẹp và sinh nhiều kết quả. Nhưng bây giờ, bà H. không thể tưởng tượng được lao công của họ sẽ bị chia cắt như thế nào. Công việc của họ làm cùng nhau như thể là công trình của một nghệ nhân lành nghề duy nhất chứ không phải là của hai con người.

Đức Giêsu, khi được chất vấn về hôn nhân, trả lời rằng “lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li” (Mc 10,6-9).

Dĩ nhiên, người ta có thể hiểu đoạn văn này theo nghĩa hành vi tính dục vợ chồng. “Cả hai sẽ thành một xương một thịt” hiển nhiên bao hàm yếu tố xác thịt. Điều đó chắc chắn là một phần trong những gì Đức Giêsu đang diễn tả. Đó là sự kết hợp hai thân xác thành một diễn ra trong hành vi yêu thương của sự thân mật vợ chồng.

Thế nhưng, mầu nhiệm hôn phối còn sâu xa hơn nhiều hành vi giao hợp tính dục thể xác. Một cuộc hôn nhân lành mạnh nhất, một hôn phối thánh thiện, còn thực hiện điều gì hơn nữa chứ không chỉ trộn lẫn hai thể xác thành một. Hai linh hồn, hai trái tim, hai cuộc đời dần dần nên một theo năm tháng ngày giờ. Hai con người, hai nhân vị hoàn toàn giờ thành một.

Đó là điều Hội Thánh dạy khi nói «Sự ưng thuận là ‘một hành vi nhân linh qua đó hai người phối ngẫu trao thân cho nhau và đón nhận nhau’: “Anh nhận em làm vợ anh…”; “Em nhận anh làm chồng em…”. Sự ưng thuận này kết hợp hai người phối ngẫu với nhau, đạt đến sự hoàn hợp khi hai người “trở nên một xác thịt”» (GLHTCG 1627).

P. và H. không còn chỉ là hai cá thể yêu nhau. Họ đã trở thành P. và H., một toàn thể hợp nhất bất khả phân li. Là Một.

Các huấn luyện viên khơi cảm hứng cho các cầu thủ, họ dạy họ nói làm sao để tất cả đội bóng trở thành một toàn thể “ăn ý” với nhau, một toàn thể hợp ý hợp lực thì mạnh hơn một tập thể gồm thành phần các cá nhân cầu thủ tài giỏi mà rời rạc. Một đội bóng vô địch thường không bao gồm hầu hết thành viên là ngôi sao. Đội vô địch là một đội biết phối hợp kì diệu các tài năng cá nhân thành phần, sao cho cả đội hợp lực thì mạnh hơn các thành phần của mình. Các nhân viên kinh doanh trong một doanh nghiệp cũng như vậy. Sự đồng lao cộng tác của các thành viên cùng nhau làm việc thống nhất sẽ tạo hiệu quả hơn rất nhiều so với một tập thể những người xuất sắc nhưng làm việc độc lập, riêng biệt.

Trong hôn nhân sự tình cũng đúng như thế, nhưng các thành viên sống tâm tình ấy một cách thân mật sâu xa hơn, phong phú, thiêng liêng hơn. “Bài toán mới” này, Một thì lớn hơn Hai, quả thật là huyền nhiệm. Bởi đó, người ta thấy tại sao nhiều người góa bụa đã chiến đấu để cố tìm lại được sự thăng bằng cuộc sống sau cái chết của người bạn đời. Họ không chỉ mất “một nửa kia” của mình. Cái họ mất mát thì sâu xa hơn nhiều. Họ mất đi một phần của chính bản thân mình. Họ mất một phần suy tưởng của mình, một phần niềm tin, ngay cả một phần thú đam mê (như việc điền viên) của họ cũng biến mất. Kí ức chung của họ đã bị cắt đứt. Quả thực, Một thì lớn hơn Hai, khi một người phối ngẫu mất đi, người còn lại bị thay đổi sâu sắc. Một phần thâm sâu bản thân đã bị mất.

Và điều tương tự cũng xảy ra như vậy trong hoàn cảnh những người li dị.

Nước mắt nhòe nhoẹt, cảm xúc hỗn độn chênh vênh, K. ngồi trong văn phòng của tôi vào ngày sau khi anh li dị vợ. Vợ anh đã bỏ đi với người đàn ông khác, bây giờ K. cầm trong tay tờ chứng nhận li hôn như di tích duy nhất còn lại của cuộc hôn nhân mười năm đã vuột qua. Tòa án tuyên bố dứt khoát: “Bằng quyết định này Tòa án tuyên bố cho li hôn…, khế ước hôn nhân hoàn toàn bị tiêu hủy kể từ hôm nay, … sẽ được coi như là những người độc lập, không còn liên kết với nhau bởi một quan hệ vợ chồng hay bất cứ hợp đồng dân sự nào”.

K. đưa tôi xem tờ Quyết định và hỏi: “Làm sao người ta có thể tuyên bố được chúng tôi không còn một kết nối với nhau nào nữa? mối liên kết chúng tôi hoàn toàn bị gỡ bỏ rồi sao? Cô ấy là vợ tôi, vì Chúa. Cô ấy là mẹ của các con tôi. Cắt đứt ư? Cô ấy là một phần bản thân tôi. Chúng tôi sẽ phải kết hợp với nhau mãi mãi”. Những năm sau đó, mỗi khi gặp lại K., anh không bao giờ ngưng nói rằng anh đã mất một phần mình không bao giờ lấy lại được.

Các nghiên cứu cho thấy rằng khi hai người đã hòa hợp làm một trong đời hôn nhân, họ sống một cuộc sống rất khác. Đặc biệt, trí khôn họ như một cặp đôi trở nên thông minh sáng suốt hơn rất nhiều so với hai con người cá thể riêng biệt. Trong tư thế một cặp đôi họ có thể đưa nhau đi tới được những chỗ mới. Trí tưởng tượng của họ phóng khoáng, rộng mở, chia sẻ với nhau những chuyện đời, tuổi thơ, những chuyến du lịch nghỉ hè, và cả những sự kiện gây tổn thương cá nhân, những thứ ấy giúp triển nở trí khôn. Một khi chia sẻ được những kinh nghiệm sống ấy, những kinh nghiệm đó hòa lẫn vào trong cuộc sống chung từng ngày của đôi bạn, chúng trở thành một phần thường trực của con người bạn, trong tư cách như một cá vị cũng như một cặp đôi.

Trí thông minh kết nối với nhau như thế còn mở rộng ra trong đời sống thực tế. Chẳng hạn như chồng có thể bắt đầu trông cậy vào tài tháo vát của vợ mình giải quyết các vấn đề chi tiêu tài chánh gia đình – không chỉ thanh toán các thứ hóa đơn hàng tháng, nhưng còn đầu tư cho tương lai khi vợ chồng sẽ về hưu vẫn sát cánh với nhau, gởi tiền tiết kiệm, sắm bảo hiểm, thẻ tín dụng. Người vợ thu thập thông tin cho gia đình về tình hình tài chính. Người vợ có thể trông nhờ vào sự khôn ngoan tích lũy được của người chồng để ông hướng dẫn trong lãnh vực tinh thần. Gia đình có thể trông cậy vào ông chỉ ra những cách thế sống thực hành cầu nguyện, phục vụ, và đức tin.

Hợp sức trong đồng lao cộng tác mở rộng cách mới mẻ khi gia đình gia tăng nhân khẩu. Một đứa trẻ là thành viên của gia đình có thể được trông nhờ vào khả năng và sáng kiến áp dụng kĩ thuật công nghệ mới giúp ích cho cuộc sống gia đình, như sử dụng các điện thoại thông minh đời mới với các phần mềm ứng dụng cho gia đình xem phim ảnh và giải trí. “Con giúp mẹ hiểu vận hành làm sao trả phí điện thoại này được không?” Một đứa con khác có thể rành rẽ việc lướt mạng thông tin để tìm trên các bản đồ những nơi nghỉ mát thú vị, hay những chỗ đậu xe khi đi thăm bạn bè, hoặc khám phá những công cụ hữu ích khi đi du lịch. “Những vật dụng hay những điều gì chúng ta cần chuẩn bị, sắm sửa cho chuyến đi nghỉ hè năm nay vậy há?”

Các nhà xã hội học khám phá thấy rằng các cặp vợ chồng, và các thành viên gia đình tự động phân chia các việc và các lãnh vực thông tin, và bắt đầu tin cậy vào nhau. Như thể tận dụng nguồn lực gia công tìm kiếm thông tin nơi các thành viên khác nhau của gia đình. Họ gặt hái được hiệu quả nhiều nhờ có một bộ óc tập thể phục vụ cho cả cộng đoàn gia đình mà không một trí thông minh cá nhân nào làm được vì hạn chế khả năng và thời gian. Thực ra, khi một người bố, hay người mẹ qua đời, hay khi gặp tình trạng li hôn, cả gia đình phải chiến đấu vì một phần nguồn lực trí tuệ và khả năng xử lí thông tin của họ bị thiệt hại. Xét mặt đời sống thực tế, nguồn lực trí tuệ tập thể này chứng tỏ một cách khác Một thì lớn hơn hai rất nhiều. Người bạn còn sống hay phần gia đình còn lại, về mặt nào đó, trở nên kém cỏi hơn vì mất mát một nguồn thâu nhập thông tin và bộ phận xử lí. Một đôi thì mạnh hơn hai cá thể độc lập.

Chắc chắn điều này đúng cho A. và tôi khi chúng tôi sống quan hệ với những người khác. Cả hai chúng tôi đều có khuynh hướng hướng ngoại, nhưng theo cách khác nhau. Tôi thích gặp gỡ những người mới và chuyện trò qua loa. Có lẽ tôi là một nhân viên chào hàng thích hợp cho Walmart. Quả thực, đó là ý định của tôi khi về hưu đấy! Tôi có thể nhớ rất tốt hầu hết những cái tên, danh mục.

Còn A. không thể nhớ được như vậy. Nhưng cô ấy có khả năng nắm bắt rất chính xác về con người, người này có tính khí thế này, người kia có ưu điểm kia, và họ có đáng tin cậy không. Cả hai chúng tôi đều vui với người khác, nhưng chúng tôi giúp nhau triển nở. Tôi nhớ được những cái tên người ta, và cô ấy thì hiểu được họ sâu sắc. Chúng tôi cùng hợp sức phục vụ thì sẽ tốt hơn hành động riêng rẽ. Một thì mạnh hơn Hai.

Sự hợp lực trong đồng lao cộng tác rất kì diệu trong hôn nhân. Đó là điều Đức Giêsu có ý khi Người nói “cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Một quả thực lớn hơn Hai. P. và H. đã chứng minh cho chân lí đó. Và các bông hồng của họ cũng nói lên như vậy.

Đó là bí quyết của Đồng lao Cộng tác.

4. Bí Quyết Bàn Thạch

Để một cuộc hôn nhân tốt đẹp điều quan trọng là vợ chồng biết chia sẻ với nhau mọi sự, cả những giá trị sâu xa nhất xác tín tự đáy lòng.

Bí quyết bàn thạch có lẽ là món quà lớn nhất tôi có thể trao tặng bạn trong quyển sách này. Nó thật quan trọng đến mức sinh tử, tôi hầu như đặt nó ở hàng đầu.

Bao nhiêu công trình nghiên cứu đều cho thấy bí quyết này như một lời tiên báo mạnh mẽ nhất nói đến sự thành công của một cuộc hôn nhân. Các linh mục và các mục tử đều khuyên dạy mọi mối quan hệ thành công tốt đẹp đều khởi đầu sống bí quyết đó. Không có nó, nền tảng của các bạn sẽ lung lay. Quan hệ có thể kéo dài, nhưng sẽ luôn có những chao đảo từ trong gốc rễ cuộc sống khiến cho hôn nhân của bạn không đứng vững, không an bình như lòng bạn mong ước sâu xa.

Vậy, đâu là bí quyết bàn thạch? Cầu nguyện. Cầu nguyện dẫn đôi vợ chồng cùng nhau đi vào một đời sống thiêng liêng của một cặp đôi. Một đời sống thiêng liêng cùng nhau sẽ cho các bạn những giá trị, những xác tín chung sâu xa tự trong lòng để cả hai vợ chồng lái con thuyền hôn nhân – gia đình cùng theo một hướng đồng thời trong mọi hoàn cảnh. Một sự kết hợp sâu xa như thế sẽ nối kết hai bạn lại với nhau như một cặp đôi, và dây liên kết ấy sẽ nâng đỡ đôi bạn theo những cách thức bạn không ngờ, không thấy trước từ ban đầu. Đời sống thiêng liêng cùng nhau đó của hai bạn như chất vữa kết dính các viên gạch xây nên ngôi nhà các bạn, thu hút các thành phần khác nhau của đời sống lại và giữ chặt trong một toàn thể thống nhất.

Khi đứa con của bạn một đêm nọ không về nhà, bạn nóng ruột ngóng đợi và không biết phải làm sao, khi ấy bí quyết bàn thạch sẽ giúp bạn trải qua thời khắc thử thách ấy thành công. Khi bạn muốn mà không thể có con, bí quyết bàn thạch sẽ giúp tình yêu của hai bạn an ổn và hướng dẫn hai bạn. Khi chồng bạn bị ngưng việc hoặc khám bệnh thấy bị mắc bệnh ung thư, bí quyết bàn thạch sẽ là người bạn thân tín của bạn. Hầu hết trong mọi trường hợp, khi hai bạn đối diện với những chuyện rất quan trọng phải quyết định, bí quyết này sẽ giúp nhắc nhở hai bạn cái gì thật sự có giá trị nhất và cái gì là quan trọng tối hậu, đối với hai bạn, vì hai bạn có cùng chung một niềm tin. Hai bạn cùng yêu quí những điều gì đáng giá nhất trong cuộc đời.

Hầu như mọi nghiên cứu đã khảo sát đều thấy rằng các cặp vợ chồng có cùng một đức tin và thực hành sống đức tin ấy cùng nhau, thì tỉ lệ li dị nơi họ rất thấp. Điều đó không có nghĩa là mọi cuộc hôn nhân khác đều sẽ hỏng, nhưng chỉ cho thấy rằng họ khó đứng vững trước những kiểm nghiệm của thời gian và thử thách. Ở Mỹ, ngày càng thấy gia tăng thách thức việc tìm được một người bạn đời có cùng đức tin và thực hành đức tin ấy cùng cách thức như mình. Xã hội chúng ta ngày nay càng ngày càng trở nên thế tục hóa và có vẻ như thù địch với tôn giáo. Chúng ta cũng sống trong bầu khí xã hội đa văn hóa, đa nguyên trong mọi lãnh vực, nhiều người không muốn tìm kiếm đào sâu cho tới cội rễ đức tin và thực hành tín ngưỡng của mình. Thay vào đó, họ sống cuộc đời mình hời hợt như một bức tranh mẫu dệt thêu bởi nhiều thứ văn hóa, không bao giờ dấn thân sâu vào một cam kết hay giá trị nào cả.

Một nghiên cứu của Đại học Texas tại San Antonio nhận thấy rằng các cặp cùng một niềm tin và cùng thực hành thờ phượng thường xuyên thì không những cuộc sống hôn nhân của họ được thỏa mãn ở mức độ cao hơn, mà còn thỏa mãn sâu xa hơn nữa nếu họ cùng tích cực tham gia hoạt động Giáo hội bằng những cách khác. Nhất là, khi các cặp cùng cầu nguyện với nhau và thực hành những việc đạo đức trong gia đình, cuộc sống hôn nhân của họ được thỏa mãn cao nhất, kết quả được cho thấy ở những người tham dự cuộc thăm dò nghiên cứu nơi 1.387 cặp.

Ngoài ra, một nghiên cứu của Đại học Virginia cho thấy rằng chỉ cần các cặp cùng nhau tham dự thực hành thờ phượng tỉ lệ li dị cũng đã giảm khoảng dưới 35 phần trăm. Mạnh hơn nữa, một thăm dò của Hội đồng Gia đình của Georgia cho thấy rằng các cặp mà cầu nguyện cùng với nhau thì chỉ có 7 phần trăm được xem thực sự là li dị, so với con số 65 phần trăm li dị những cặp không bao giờ cầu nguyện chung với nhau. Các bạn biết rồi đấy.

Trong một thời đại khi mà tuổi thọ các cuộc hôn nhân của những người nổi tiếng chỉ tính bằng giờ hoặc ngày, và tỉ lệ li dị luôn được cho là khoảng 50 phần trăm, chúng ta thấy rõ ràng hôn nhân quả là một vấn đề khó sống. Và khi các bạn không có cùng một niềm tin, hôn nhân còn khó khăn hơn nữa. Thực tế hầu như là không thể được.

Nghiên cứu của chúng tôi tại Học viện Công giáo Dynamic cho thấy rằng khi cả hai vợ chồng cùng thực hành tích cực đức tin Công giáo của mình, thì tỉ lệ li dị dưới 11 phần trăm. Nói cách khác, hôn nhân của bạn hầu như được bảo đảm phát triển tốt đẹp khi các bạn đi lễ, quảng đại dâng hiến, nhiệt thành phục vụ, và cầu nguyện cùng nhau. Khi các bạn sống điều đó cách thường xuyên chứ không chỉ lúc nắng lúc mưa, xác suất thất bại của hôn nhân các bạn rơi từ 50 xuống còn 11 phần trăm. Sụt gần 80 phần trăm không còn li dị nữa, chỉ cần hai bạn cùng nhau thực hành sống đức tin tích cực. Cùng một đức tin và có chung những xác tín căn bản đồng nghĩa các bạn sẽ có một cuộc hôn nhân sung mãn. Sẽ có những hoa trái tốt đẹp.

Để một cuộc hôn nhân tốt đẹp điều quan trọng là vợ chồng biết chia sẻ với nhau mọi sự, cả những giá trị sâu xa nhất các bạn xác tín tự đáy lòng. Quan hệ của bạn với Chúa là trung tâm điểm con người của bạn và chi phối mọi sự bạn làm. Khi bạn và người bạn đời của bạn không có chung điều ấy, đó là các bạn đang hát một bài song ca với hai bản hòa âm phối khác nhau.

Quyển sách Tôbia không được nghe đọc nhiều trong phụng vụ thánh lễ trong năm, nhưng trong đó các bạn sẽ nhặt được một viên đá quí rất đẹp nhắc ta nhớ đến bí quyết bàn thạch này. Khi Tôbia biết được Chúa đã chọn cho mình Sara làm vợ, ông lập tức đem lòng yêu quí nàng, dù chưa một lần gặp mặt. Anh đặt niềm tin vào Thiên Chúa trên hết mọi sự. Quan hệ cũng như hôn nhân của anh được tin cậy phó thác vào bàn tay Chúa.

Sara đã đính hôn trước đó, trong thực tế nàng đã từng cả thảy sáu lần rồi! Và mỗi lần người-lẽ-ra-là-chồng nàng đều bị quỉ giết chết khi sắp gần nàng đêm động phòng. Một loạt sáu lần như thế. Không hay chút nào.

Thế nhưng, cho dù có cái vết mang điềm tai họa như thế, Tôbia tin tưởng vào Thiên Chúa và kế hoạch quan phòng của Ngài. Anh vẫn cưới Sara mặc cho cảnh báo nguy hiểm của bao nhiêu người chứng kiến. Khi đôi tân hôn đứng trước đêm động phòng với quỉ ma, nguy hiểm, và sự chết kề bên, đôi bạn lập tức hướng về Chúa. Họ quì xuống và cùng nhau cầu nguyện.

Tôbia ngồi dậy, ra khỏi giường và nói với vợ: «Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện, nài xin Đức Chúa để Người thương xót và bảo vệ chúng ta».

Cô đứng lên, và họ bắt đầu cầu nguyện và xin cho mình được cứu thoát. Tôbia bắt đầu như sau:

“Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con. Xin chúc tụng Chúa, xin chúc tụng Thánh Danh đến muôn thuở muôn đời! Các tầng trời và toàn thể công trình của Chúa phải chúc tụng Chúa đến muôn thuở muôn đời!

Chính Chúa đã dựng nên ông Ađam, dựng nên cho ông một người trợ thủ và nâng đỡ là bà Evà, vợ ông.

Và dòng dõi loài người đã sinh ra từ hai ông bà.

Chính Chúa đã nói: ‘Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một người trợ thủ giống như nó’.

Giờ đây, không phải vì lòng dục, mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành.

Xin Chúa đoái thương con và em con cho chúng con được chung sống bên nhau đến tuổi già.”

Rồi họ đồng thanh nói: “Amen! Amen! ” Sau đó, họ ngủ luôn cho đến sáng. (Tb 8,4-9)

Quan hệ của họ bén rễ trong đức tin. Thiên Chúa là Bàn thạch nền tảng hôn nhân của họ. Tôbia đã thử nghiệm lí do của mình cho cuộc hôn nhân trước mặt Chúa. Anh muốn quan hệ hôn nhân này được xây dựng dựa trên đức tin và thành tín hơn là bởi lòng dục thiếu chín chắn. Hôn nhân của họ không chỉ tồn tại sau đêm tân hôn, nhưng lời cầu nguyện tuyệt vời này còn là bản mẫu cho mọi hôn nhân khác phải noi theo. Đức tin và sự thành tín là nền tảng tạo nên hôn nhân bền vững.

Khi bạn có con cái, thách đố còn nhiều và gay go hơn nữa. Thời gian biểu sinh hoạt cuộc sống trở nên khít khao hơn, tiền bạc hiếm hoi hơn, con cái ngày càng lớn lên và chúng có những quyết định riêng độc lập, và còn nhiều điều khác khó hơn nữa. Bí quyết bàn thạch càng trở nên quan trọng hơn cho hôn nhân và gia đình bạn. Trước hết, hai vợ chồng ít quan tâm chăm sóc nhau hơn. Có cùng quan điểm về Thiên Chúa và cuộc sống sẽ trang bị cho đôi bạn khí cụ giúp ích giai đoạn này khi mà hai bạn ít có thời gian dành cho nhau. Thứ đến, giờ đây bạn có ít sinh linh bé bỏng cần cậy nhờ bạn chuẩn bị cho cuộc sống thể lí chúng. Bạn chỉ có thể giúp chúng lớn lên để thành người mà Thiên Chúa muốn và định theo ý Ngài. Bí quyết bàn thạch sẽ giúp bạn xây dựng đức tin trong cuộc sống gia đình và nơi linh hồn con cái bạn.

Bạn có thể chọn xây dựng một tập quán truyền thống gia đình với con cái bạn trong mùa Vọng chuẩn bị đón mừng Lễ Giáng sinh chẳng hạn. Các tập tục làm nên ý nghĩa và nội dung cuộc sống trong gia đình bạn. Sau này khi chúng đã lớn, chúng sẽ vẫn nhớ – và thường hỏi bạn phải làm sao – các truyền thống ấy, liệu có cùng nhau trang trí nhà cửa một mùa Vọng nào đó hoặc có đi đến các trung tâm giáo dưỡng người vô gia cư dịp lễ Tạ Ơn năm nay không.

Bạn có thể quyết định dành một tuần lễ dịp hè mỗi năm đi phục vụ với một nhóm truyền giáo trong giáo xứ bạn. Bạn có thể xây dựng một thói quen đọc kinh và Lời Chúa hằng ngày hoặc đọc sách đạo đức trong gia đình để con cái bạn học được các thói quen tinh thần lành mạnh. Bí quyết bàn thạch cũng có thể được diễn tả qua những lời sau đây của thánh Phaolô trong thư Côlossê chương 3: «Dù làm bất cứ điều gì, con hãy làm vì Danh Chúa Giêsu».

Khi bạn xây dựng những thói quen đạo đức này trong cuộc hôn nhân, gia đình và cuộc sống của bạn, bạn có thể xây dựng được một ngôi nhà kiên cố đứng vững được xuyên qua những bão tố lớn nhất cuộc đời. Bạn giống cách nào đó như anh Th. B. một người Việt Nam nhập cư ở Hoa Kỳ. Anh có vợ người Đức, và họ dọn đến ở một nơi vùng đồi núi California và bắt đầu xây dựng ngôi nhà mơ ước.

Th. B. tự làm hết mọi việc. Anh đổ nền xây móng. Dựng các cột, xây tường, làm cửa nẻo, đặt mái. Anh lắp đặt hệ thống các thứ ống dẫn nước, khí, đường điện. Th. B. tự mình làm tất tần tật. Anh lao động trong hai năm, chỉ mua những vật liệu tốt bền nhất cho công việc xây dựng và kiến trúc. Anh muốn căn nhà của mình phải thật tuyệt vời. Anh trát vữa stucco trên hết các tường nhà để chống cháy.

Khi xảy ra cháy rừng trong vùng, Th. B. đã sẵn sàng ứng phó. Tất cả mọi người đều sơ tán khỏi nhà. Anh cho vợ và con gái chạy lánh nạn, còn anh ở lại trong căn nhà mình đã xây. Hầu hết thời gian anh chỉ ngồi ở trên mái nhà, tưới đẫm nước giữ cho mái ẩm ướt và mát. Th. B. đã dồn hết bao công sức tiền bạc của mình cho căn nhà đó làm sao anh có thể chấp nhận bỏ nó dễ dàng được.

Ngày nay, nếu có ai đi qua vùng đó, người ấy sẽ thấy một vùng đồi núi bị hỏa hoạn tàn phá và cháy nhiều thành than. Không còn cây cối. Chỉ còn sót lại một vài ống khói và mấy cái bàn cầu vệ sinh trơ trọi gần trên đỉnh ngọn đồi. Bạn cũng sẽ thấy Th. B. và gia đình anh vẫn sống trong căn nhà mơ ước ấy mà anh đã xây chỉ với những vật liệu tinh tế nhất. Cách nào đó, Th. B. giống như người mà Đức Giêsu ví đã xây nhà trên nền đá chứ không trên cát. Khi mưa sa bão táp lũ dâng, nhà của anh vẫn đứng vững vàng, hiên ngang.

Khi các bạn xây dựng hôn nhân của mình trên nền những giá trị của đức tin chung của hai người, và các bạn thực hành thường xuyên đức tin ấy cùng nhau, các bạn sẽ có một cuộc sống, gia đình vững vàng trước giông tố cuộc đời. Điều đó không có nghĩa là bạn sẽ né tránh được các khó khăn thử thách; nhưng chỉ có nghĩa rằng bạn sẽ có sức mạnh và nguồn lực chiều sâu để vượt thắng chúng.

Thiên Chúa không phải là một sức mạnh mơ hồ, xa xăm đối với những ai sống cầu nguyện thường xuyên, Ngài là một người bạn thân thiết gần gũi, và nhà tham vấn khôn ngoan. Những người đó đang lắng nghe tiếng Chúa trong cuộc sống của họ. Họ biết rằng làm theo thánh ý Chúa là cách duy nhất dẫn đến hạnh phúc bền vững trong thế gian hay thay đổi này (và cả thế giới bên kia). Vấn đề là những tín hữu Công giáo ấy có dành thời gian để cầu nguyện, một nơi chốn để cầu nguyện, và có một nội dung chất liệu để cầu nguyện.

Khi các bạn thiết lập một thói quen cầu nguyện chung với nhau – có thể đơn giản chỉ năm đến mười phút mỗi ngày – cuộc sống hôn nhân của bạn sẽ triển nở một cách bạn không ngờ. Bạn sẽ có những năng lực mới và Thiên Chúa sẽ mở cho bạn một viễn cảnh cho tương lai và gia đình bạn. Một lần nữa tôi nhắc lại, điều quan trọng là bạn tạo lập một thói quen đơn giản – năm mười phút mỗi ngày. Thỉnh thoảng dâng lên Chúa lời cầu nguyện nơi này nơi kia trong từng hoàn cảnh (“Ô, Chúa ơi, xin giúp con tìm thấy chiếc điện thoại lạc đâu rồi”, hoặc “Ô, lạy Chúa cho con qua được cơn bão này về tới nhà bình an”) cũng là điều rất tốt. Nhưng thói quen cầu nguyện thường xuyên là điều hoàn toàn khác. Đó là bạn đang đổ nền móng vững chắc cho cuộc sống của bạn.

Cầu nguyện thường xuyên mỗi ngày chính là mối quan hệ của bạn với Chúa. Không cầu nguyện thì thực sự không có quan hệ. Không có giao tiếp thì không có quan hệ, nhất là với Thiên Chúa. Và khi các bạn cầu nguyện như một đôi cùng nhau, là bạn đang mời gọi rước ơn Chúa vào trong cuộc đời mình, và Thánh Thần Người sẽ ngày càng giúp bạn lớn lên tiến bước trong cuộc sống. hãy nhớ rằng hai bạn đang giúp nhau cùng đi lên trời.

Sau đây là những gợi ý nội dung giúp cho tiến trình cầu nguyện:

1) BIẾT ƠN

Bắt đầu cầu nguyện bằng dâng lời cảm mến tri ân Chúa về những gì tuyệt vời chúng ta nhận được ngày hôm nay.

2)THỨC TỈNH

Nhìn lại những lúc bạn sống thực hoặc không thực sự là mình hai mươi bốn giờ qua. Nói với Chúa về những tình cảnh đó và xin Ngài ban ơn giúp biết tỉnh thức hơn nữa khi xảy ra lại những tình huống như vậy.

3) NHỮNG THỜI KHẮC Ý NGHĨA

Cố định hình một điều gì đó bạn trải nghiệm ngày hôm nay và tìm khám phá xem Chúa đang muốn ngỏ điều gì với bạn qua sự kiện đó.

4) BÌNH AN

Xin Chúa tha thứ những sai lầm đã làm hay tội lỗi đã xúc phạm (với chính mình, người khác, hoặc với Chúa) và xin Ngài thương ban sự bình an sâu xa trường tồn trong tâm hồn.

5) TỰ DO

Nói với Chúa rằng Ngài đang mời gọi bạn thay đổi cuộc sống như thế nào để kinh nghiệm được điều rất ý nghĩa là sự tự do, vốn đến từ chỗ bạn biết mình là ai, bạn đang ở đâu, bạn đang làm gì. Ngài có đang mời gọi bạn suy xét lại lối sống của mình không? Chúa có đang yêu cầu bạn buông bỏ cái gì đó hay một ai đó không? Ngài đang xin bạn tiếp tục điều gì đó hoặc sống tử tế với ai đó không?

6) CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI KHÁC

Cầu nguyện cho ai đó mà bạn cảm thấy cần cầu xin cho họ ngày hôm nay, và ai đó xin bạn cầu nguyện cho họ thời gian gần đây. Để một thời gian cầu nguyện cho những người này cụ thể đích danh, và xin Chúa chúc lành cho họ và hướng dẫn họ.

7) KẾT THÚC BẰNG ĐỌC KINH LẠY CHA.

5/5 - (1 bình chọn Bình chọn)